Thơ
“Lục Bát huyền ảo hiện đại”
Trong cuốn sách “Thơ ca
và sự chuyển động” (Tiểu luận - Phê bình) NXB Hội Nhà văn, 2015, tác giả có bài viết nói về thơ “Lục Bát huyền ảo”, nhưng sự
chuyển động và phát triển của Lục Bát không chỉ dừng lại ở đó, Lục Bát ngày nay
được làm mới, ngày càng đa dạng, ngày càng được các nhà thơ chú tâm phát triển
những hình thức Lục Bát mới hay hơn và đa dạng hơn. Lục Bát ngày nay không chỉ
huyền ảo mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn, có chất của thơ hiện đại, ngôn ngữ thơ hiện
đại, ý nghĩa đa dạng, hình thức đa dạng. Muốn sáng tạo thì ở môi trường nào,
hình thức nào, loại hình nào, thời đại nào cũng sáng tạo được, không nhất thiết
phải bắt chước trào lưu của thế giới đương thời mới là sáng tạo, mới là mới và
hiện đại. Tác giả tạm gọi loại hình thơ này là “Lục Bát huyền ảo hiện đại”.
Tác giả bài viết xin
trích dẫn ra đây mấy bài thơ thuộc loại này. Đầu tiên xin giới thiệu ba bài thơ
của nhà thơ Nguyễn Tiến Thanh hiện là Tổng biên tập Báo Đời sống và Pháp luật:
ĐƯA
Đưa Quen về
cuối con đường
Nghe hun hút
gió vô thường trong tim
Đưa Thương về
cuối cô miên
Tóc mưa thăm
thẳm rủ trên siêu hình
Đưa Yêu về cuối
yên bình
Rơi câu thơ -
vỡ tan tình bâng khuâng
Đưa Đau về cuối
thanh xuân
Tháng hoang
mang đợi, ngày phân vân chờ.
Đưa Quên về cuối
con đò
Nhờ mây trắng
chở câu hò sang ngang
Đưa Thơ về cuối
mênh mang
Lục bình ơi
có nhớ tràng giang xưa...
Đưa Em về cuối
cơn mưa
Cỏ hoang lối
cũ đã thưa thớt rồi
Đưa Ta về cuối
chân trời
Còn đâu những
vết chân vời vợi xa...
FACEBOOK (1)
Người về chém
gió trên "phây"
Thì ta tóc
xoã ngang mây cuối đèo
Tháng năm
trôi, lá bay vèo
Post lên mực
tím ngập chiều phố xưa...
Người về nắng
tắt, mưa thưa
Những comment
cắt qua mùa không tên
Nhớ nhiều
thêm, để mà quên
Tuổi hoa niên
héo trên thềm heo may...
Người về úa
tóc, run tay
Thì ta áo trắng
cũng phai bụi đời
Khát đam mê,
đói chân trời
Ngàn năm khất
thực những lời tram năm…
BỞI VÌ MÂY BAY
Ta chôn vực
thẳm ven đời
Gieo thơ lục
bát ngang trời thị phi
Nhớ là quên,
đến là đi
Chắc mây vẫn
trắng bởi vì mây bay
Đã nghe gió bấc
lưu đày
Hanh hao tóc
úa dọc ngày chớm đông
Tỉnh là mê, sắc
là không
Chốn nhân
gian có nâu sồng cõi tu?
Trĩu vai một
gánh sương mù
Nát tim từng
giọt mưa phù vân rơi
Thấy ngày mai
lững thững trôi….
Tiếp theo dòng thơ này xin giới thiệu bài
thơ của nhà thơ
Nguyễn Hữu Quý:
Hạ thủy những
giấc mơ 2
Theo cha ra
biển, mở buồm
mây bay như nhớ
cội nguồn về non
hải trình không
dấu chân mòn
ngàn năm ngực
vạm vỡ còn mặn theo.
Lời ru mẹ mắc
cheo leo
gừng cay đầu
sóng, muối neo lòng rừng
đói lòng ăn đọt
lá mưng
gánh non sông giữ
điệp trùng vẹn nguyên.
Biển Đông sóng
cả, con thuyền
mái chèo cắt
gió giữa miền mênh mông
đảo hoang ghé
hạt lửa hồng
mọc lên ấm áp
muôn vòng sinh sôi.
Làng trên sóng
ngóng mưa rơi
ăn nằm kẽo kẹt
mù khơi nổi chìm
mắm tôm, cà
xổi, cá rim
thương nhau lục
bát đi tìm ca dao.
Nhỏ nhoi đảo
bão giông gào
ngọn rau mỏng
mảnh nép vào trẻ trai
lặng im giọng
hót đầu thai
bợc san hô nhú
một vài líu lo.
Bát nhang trăm
dặm xa bờ
trái cây chén
nước đặt thờ tổ tiên
trùng khơi nối
với đất liền
cầu mong biển
lặng, trời yên xa gần…
Dậu phên làng
lính, làng dân
khắc lên đảo
bài thơ Thần linh thiêng
mái chùa một
nét Việt riêng
hoa văn ngọn
lửa thắp miền viễn khơi…
Trong báo Văn
nghệ số 11 (2016) Ngô Minh có bài Qua cầu:
Dập dềnh lục
bát sang sông
giữa ngày hạ
cháy mà đông se về
buồn ơi
buồn
mắt tái tê
tóc miên man
gió nhà quê
dãi dầu!
tình yêu như
nước qua cầu
thôi em đừng
hỏi những câu…
răng đành
em đi về phía
không anh
anh đi về phía
thác ghềnh
trắng phau…!
Xuân Diệu rất ít làm thơ lục bát, nhưng bài
thơ của Xuân Diệu viết từ năm 1967 cũng rất “hiện đại”, xin giới thiệu để bạn
đọc thưởng thức:
LÀ
( Ca khúc)
Sáo vi vu thổi trong veo
Lên non là gió, qua đèo là mây;
Ngả bên dòng suối là cây;
Vương trong ánh mắt là dây tơ hồng.
Sáo ngân nga mãi bên lòng,
Vững trơ là đá, thắm hồng là son
Núi cao chót vót chon von
Anh xây, xây mãi chưa tròn tình yêu.
Sao nồng đượm biết bao nhiêu!
Mơn man với cảnh, thân yêu với người.
Quanh ta ríu rít là đời;
Bên em ai hát ai cười – là anh…
27-8-1967
Xuân Diệu
(Tuyển tập
Xuân Diệu I – NXB Văn Học 1986)
Hãy đọc bài thơ “Đồng chiều” khá lạ của Đỗ
Vinh:
Đôi sừng đã chạm cổng làng
Chân còn bì bõm chưa sang khỏi chiều
Cái đuôi sau rốt vòng vèo
Còn vung vẩy nốt chút heo may đồng.
Không
gian, thời gian, cũ và mới, truyền thống và hiện đại, thực và ảo hòa quyện
trong một bức tranh chiều quê thật lạ lùng hư ảo.
Ngôn ngữ thơ luôn luôn
đổi mới và phát triển, các nhà thơ thời hiện đại sẽ sáng tạo và đưa những ngôn
ngữ thơ hiện đại vào thơ Lục Bát như đã từng đưa vào thơ tự do hiện đại, nên
trong tương lai có lẽ thơ Lục Bát cũng sẽ khó hiểu như thơ tự do hiện đại.
Người yêu thơ ca cần làm quen với ngôn ngữ thơ hiện đại để hiểu được thơ hiện
đại cũng như hiểu được “Lục Bát huyền ảo hiện đại”.
Những nhà thơ sáng tạo thơ tự do hiện đại có
thể sẽ bị cô đơn, đơn độc nhiều khi là cô độc, ngược lại những nhà thơ sáng tạo
thơ Lục Bát sẽ dễ dàng đi vào lòng độc giả - người yêu thơ ca hơn. Mỗi nhà thơ
có sự lựa chọn cho con đường đi của riêng mình, dù cho con đường đó có thể đầy
chông gai, gian khổ và không biết được tương lai sẽ đi đến đâu và có thể là vô
vọng…
Cũng như bất cứ loại hình
văn hóa nào, Lục Bát cũng phải làm mới, thay đổi để phát triển và tồn tại.
Nhân đây xin kính tặng
những nhà thơ một đời tâm huyết đổi mới thơ ca mấy câu thơ với lòng yêu mến và
kính trọng chân thành:
Tóc xưa lốm đốm hai màu
Nắng vàng vẫn đổ trên đầu trang
thơ
Nước ra biển, nắng vô bờ
Văn thơ chuyền động sững sờ thế
gian.
Hà Nội
ngày 27/2/2016