LÊ THANH LONG
Một
vài ý kiến nho nhỏ bình luận
một số câu thơ trong Truyện Kiều
Tìm hiểu ý nghĩa từng câu, từng chữ trong
Truyện Kiều, cho đúng với thâm ý của cụ Nguyễn Du là một việc làm cực kỳ khó
khăn, nhưng rất thú vị, để cho độc giả hiểu một cách sâu sắc Truyện Kiều. Đó là
một việc làm rất đáng trân trọng của Hội Kiều học Việt Nam, đang được đông đảo bạn đọc
hoan nghênh, hưởng ứng. Đầu năm 2013, Hội Kiều học vừa ra tập sách đầu tiên
KHUÔN TRĂNG… NÉT NGÀI… trong tủ sách “Trăm năm”
Tìm hiểu ý nghĩa từng câu thơ trong Truyện
Kiều là phải theo đúng nguyên bản (theo các bản hiện có), như ý kiến của Hội Kiều
học là hết sức đúng đắn. Ta không nên thay đổi văn bản khi bình luận, dù đó có
thể là hay hơn, dễ hiểu hơn nguyên bản, nhưng đó không phải là thơ của cụ Nguyễn
Du, chưa nói, làm như vậy là thiếu tôn trọng cụ. Chúng tôi rất đồng ý với ý kiến
của Hội Kiều học là phải xét câu thơ quan hệ với các câu thơ khác và có khi
toàn tác phẩm Truyện Kiều, có như vậy mới hiểu được đúng ý những câu thơ khó
trong Truyện Kiều.
Sau đây tôi xin có một số ý kiến bình luận
về một số câu thơ được cho là “khó” trong Truyện Kiều, còn có ý kiến tranh luận
chưa ngã ngũ:
1.Nguyễn Du lột tả tinh thần nội tâm của Thúy Vân và
Thúy Kiều trong có hai câu thơ
Câu thơ:
17.Mai cốt cách, tuyết tinh thần
18.Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười (1)
Được cụ Vân Hạc Lê Văn Hòe chú giải: Mai cốt
cách: cốt cách thanh kỳ như cây mai, ý nói tầm vóc người dong dỏng cao,
thanh thanh như cành mai (cành mai coi gầy guộc xương xẩu, thanh thanh). Mấy chữ
này tả tầm vóc Kiều.
Tuyết tinh thần: tinh thần trong trắng
như tuyết, ý nói tư tưởng trong sạch, đầu óc ngây thơ, không bợn một chút gì ô
trọc, tức là ngoan ngoãn nết na, thật thà chất phác. Mấy chữ này tả tính tình,
đức hạnh của Thúy Vân.
Cứ coi câu sau: Mỗi người một vẻ… thì biết rằng mai cốt cách là vẻ của người này,
và tuyết tinh thần là vẻ của người kia, chớ có hai vẻ đó không chung cho cả hai
chị em Kiều như người ta vẫn thường hiểu.
Mười
phân vẹn mười: giá như vẻ của mai cốt
cách có mười phần thì Kiều có đủ cả mười phần; vẻ của tuyết tinh thần có mười phần thì Vân có đủ mười phần ấy.
Mai
cốt cách là vẻ đẹp của thân hình; tuyết
tinh thần là vẻ đẹp của nết na. Tác giả muốn nói: một người thì thân hình hết
sức đẹp, một người thì nết na hết sức ngoan.
Truyện Kiều có cả thảy 3254 câu lục bát,
nhưng Nguyễn Du lột tả tinh thần nội tâm của Thúy Vân và Thúy Kiều chỉ trong có
hai câu thơ:
17.Mại cốt cách, tuyết tinh thần
18. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Theo chúng tôi, câu thơ thứ hai giải
thích và làm rõ ý cho câu thơ thứ nhất, mang tính so sánh “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”, Thúy Vân và Thúy Kiều có
khác nhau (Mỗi người một vẻ), nhưng đều
toàn bích (mười phân vẹn mười). Mà đã
so sánh thì phải so sánh cùng một loại hình nội dung: cùng so sánh về hình thể,
hay cùng so sánh về tinh thần (ý nghĩ, tình cảm, đời sống nội tâm…), chứ không
thể so sánh hình thể (thân hình, tầm vóc, khuôn hình…) của người này với tinh
thần (tâm hồn, đời sống nội tâm…) của người kia được.
Như vậy “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” phải được hiểu Nguyễn Du tả cùng một
loại hình nội dung. “Tuyết tinh thần”
thì đã rõ: nói về tinh thần, tính cách, tư tưởng, tâm hồn…, tức là Nguyễn Du muốn
nói về vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp bên trong. Như vậy “Mai cốt cách” cũng phải hiểu là Nguyễn Du tả vẻ đẹp về tâm hồn bên
trong, chứ không thể hiểu là vẻ đẹp về hình thể bên ngoài được (những câu thơ từ
câu 19 trở đi Nguyễn Du so sánh vẻ đẹp hình thức bên ngoài của Thúy Vân và Thúy
Kiều).
Vậy “Mai
cốt cách” là gì? “Mai cốt cách”
là tính
cách như cây mai hay tính cách như hoa mai? Với một cô
gái đẹp, con nhà khuê các, mới lớn 15 – 16 tuổi, mà ví như cây mai chịu sương,
chịu gió, chịu giá rét, phong trần… ,
thì e rằng không thích hợp. Vậy “Mai cốt
cách” là Nguyễn Du ví tính cách như hoa mai, cũng trong trắng
chẳng kém gì tuyết trắng, nhưng nếu hoa mai bị phơi ngoài nắng gió và giá rét,
thì pha chút hồng, và càng nắng gió thì màu hồng càng đậm hơn. Hoa mai thích
nghi được và thay đổi theo ngoại cảnh, tùy thuộc vào tình thế. Còn tuyết trắng
thì dù có nắng gió, giá rét… tuyết vẫn trong trắng, tinh khiết, tinh khôi… Tinh
thần hoa mai cũng trong trắng, trong sạch, nhưng có pha một chút hồng sắc sảo,
không hoàn toàn thuần khiết như tuyết trắng. Từ “tinh thần” Nguyễn Du dùng ngày ấy giống như “tâm hồn” trong ngôn ngữ ngày nay. Từ “tinh thần” ngày nay đã mang một số ý nghĩa khác. Trong tinh thần
như hoa mai và tinh thần như tuyết trắng,
Nguyễn Du muốn ám chỉ ai? Thúy Vân hay Thúy Kiều? Đến đây đã rõ: Tinh thần như
tuyết trắng là ám chỉ Thúy Vân, còn tinh thần như hoa mai là ám chỉ Thúy Kiều,
Nguyễn Du đã chuẩn bị cho nhân vật Thúy Kiều sẽ phải trải phong trần, sương gió
như hoa mai.
* Bản
GS. Vũ Ngọc Khánh chú giải: Mỗi người một vẻ
Bản Đào Duy Anh, hiệu khảo chú giải: mỗi người
mỗi vẻ
Tập sách: Khuôn trăng… nét ngài… cuộc tranh
luận chưa kết thúc, chép là:
Một người một vẻ.
2. Bí quyết nghề nghiệp quan trọng bậc nhất của Tú Bà
Trong các chỉ dẫn bí quyết nghề nghiệp của
Tú Bà, người ta thắc mắc nhất là câu:
1213. Khi khóe hạnh, khi nét ngài
Vì
sao vậy? Vì hiểu “khóe hạnh” là nhoẻn
miệng cười và “nét ngài” là chau mày,
là không đúng với ý thơ của Cụ Nguyễn Du, những hành động như vậy không có gì đặc
biệt, nên không mê hoặc được khách làng chơi lắm tiền, nhiều của.
Trong câu thơ Nguyễn Du sử dụng cụm từ
khi… , khi… chia thành hai vế, hàm chứa tính chất đối lập của hành động, hay sự
việc, tùy thuộc vào từng lúc, từng đối tượng khách làng chơi.
Ta chú ý câu thơ:
1214. Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Khi
thì đàn hát, ngâm thơ dưới trăng, khi thì cười cợt như hoa. Khi ngâm thơ là thể
hiện người có học thức, có kiến thức, có tài, chỉ có con nhà quyền quý, con nhà
lành mới có được phẩm chất này. Lúc nào dùng “chiêu” này? Tất nhiên là khi tiếp đón khách hàng là những trí thức
có học vấn. “Khi cười cợt hoa” là hành động quyến rũ khách làng chơi bằng nụ cười,
khóe mắt, sự nhí nhảnh, hồn nhiên… Hai vế của câu thơ này cũng có tính chất đối
lập của hai hành động. Chúng ta chú ý đến bí quyết này mà Tú Bà dạy cho Thúy Kiều
và các cô gái lầu xanh.
Vì vậy, nếu câu: “Khi khóe hạnh, khi nét ngài” mà phân tích: “Khi khóe hạnh” là nhoẻn miệng cười hoặc liếc mắt đưa tình và nét
ngài là chau mày, do chúng ta suy luận ra từ hình ảnh “hoa hạnh”, thì sẽ trùng với nội dung của câu “khi cười cợt hoa”, mà Nguyễn Du đã mô tả rõ ràng. Trong một bài bí
quyết nghề nghiệp đâu có lặp lại hai lần một ý như nhau!
Từ
những dẫn giải ở trên, chúng tôi cho rằng trong câu “Khi khóe hạnh, khi nét ngài” Nguyễn Du cũng nói về hai sự
việc hàm chứa tính chất đối lập nhau. “Khóe hạnh” không nhất thiết phải hiểu “hạnh” là “hoa hạnh”, hạnh
có hai nghĩa: hạnh là cây ăn quả họ đào, hạnh cũng có nghĩa là nết tốt của người
con gái, “hạnh” có thể hiểu là “đức hạnh” như trong câu:
1469. Thương vì hạnh, trọng vì tài
1470. Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Theo ý chúng tôi “Khi khóe hạnh, thi nét ngài” là bí quyết nghề nghiệp quan trọng bậc
nhất, mà Tú Bà chỉ dẫn cho Thúy Kiều và các gái lầu xanh. Tại sao vậy?
“Khi
khóe hạnh” không phải là hành động chinh phục, mà là thủ đoạn chinh phục. “Khi khóe hạnh” là đóng kịch, dùng lời
nói, dùng hành động của mình, dùng tài ứng biến, thuyết phục khách làng chơi rằng
mình là con cái nhà lành, đức hạnh, thùy mị, lỡ cơ, bị ép buộc bán vào đây, làm
rung động trái tim, làm mủi lòng, làm mê hoặc những kẻ giàu có, nhẹ dạ cả tin,
giống như ngày nay các ả cave đóng giả là sinh viên, nghệ sỹ…
Còn cụm từ “khi nét ngài” lại là phương thức hành động, cách thức hành động.
Đó là cách dùng những đường nét cơ thể, cử động cơ thể, những bộ phận cơ thể:
Đôi gò bồng đảo, cái eo cong, cặp mông gợi tình, dáng đi uyển chuyển, tha thướt…mà
trời phú cho những cô gái trẻ, đẹp để chinh phục khách làng chơi (như trong bài
“Một cách hiểu khác về câu thơ thứ 20” trong Tuyện Kiều, tôi đã giải thích rõ “nét ngài” là gì, Tủ sách “Trăm năm”,
Khuôn trăng… nét ngài… cuộc tranh luận chưa kết thúc, trang 54).
3. Ánh mắt sắc như nước
Câu thơ:
25. Làn thu thủy, nét
xuân sơn
26. Hoa ghen thua thắm,
liễu hờn kém xanh
tả sắc
đẹp của Thúy Kiều.
Bản
GS. Vũ Ngọc Khánh chú giải: Thu thủy: Nước mùa thu. Xuân sơn: Núi mùa xuân. Câu
này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi
mùa xuân.
Bản
của cụ Vân Hạc Lê Văn Hòe cũng chú giải tương tự và thêm: Môi đỏ thắm đến nỗi
hoa cũng phải ghen tỵ vì hoa thua thắm; mái tóc dài tốt và xanh đến nỗi tơ liễu
cũng phải oán hờn vì liễu kém xanh (môi đỏ thắm, mái tóc dài tốt và xanh là suy
luận không có trong văn bản).
Nguyễn Du tả vẻ đẹp của Thúy Vân rất rõ
ràng:
22. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Còn
khi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Không
biết cụ định tả cái gi? Cái gì như “làn
thu thủy”, cái gì như “nét xuân sơn”?
Làn thu thủy là gì? Nét xuân sơn là gì? Biết là Cụ tả vẻ đẹp của Thúy Kiều,
nhưng chủ thể của vẻ đẹp này là gì (bộ phận nào của cơ thể) thì hoàn toàn không
biết. Vì chưa biết chủ thể, nên các chú giải cũng chỉ là suy đoán: Mắt
Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng
núi mùa xuân (mắt Kiều, lông mày là suy luận, không có trong văn bản).
Nếu hiểu “Làn thu thủy” là làn nước mùa thu và “nét xuân sơn” là nét núi mùa xuân, một cách đơn giản như vậy, thì
không thể giải thích được tại sao “hoa”
lại phải “ghen thua thắm”, “liễu” phải “hờn kém xanh”? Vì làn nước mùa thu và nét núi mùa xuân thì cũng chẳng
có gì đặc biệt cho lắm.
Nguyễn Du viết:
1323.Nàng càng ủ dột thu ba
1324.Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh
Theo ý kiến chúng tôi, trong câu thơ 25, “thu” và “xuân” không phải là mùa thu và mùa xuân, “thu” là “thu ba”, “xuân” là “xuân thì, xuân sắc”, tức là làn thu ba như nước, nét xuân thì như nét
núi.
Mắt là cửa sổ tâm hồn, ánh mắt thể hiện nội
tâm, thể hiện tính cách, nội tâm và tính cách toát ra từ ánh mắt. Làn thu ba
như nước là ánh mắt sắc như nước. Ánh mắt sắc như nước, cái nhìn sắc như nước,
cái liếc mắt sắc như nước, thì không thể có bút nào tả cho đẹp hơn, hay hơn được
nữa.
Nét xuân thì, nét xuân sắc là đặc trưng của
các cô gái 15 – 16 tuổi, cái tuổi dậy thì đẹp nhất của đời người con gái. Ở cái
tuổi này tất cả các nét đẹp của cơ thể của tâm hồn đều bừng sáng lên đến độ cực
đại. Nét
xuân thì như nét núi. Vậy “nét
núi” là nét gì? Ngày xưa người ta thường vẽ tranh bằng bút lông, vẽ một ngọn
núi thường chỉ bằng một nét cong là ra hình một ngọn núi. Vẽ hai nét cong liên
tiếp sẽ thành hai quả núi. Hai nét cong cong này chúng ta thấy nó giống cái gì
của người con gái dậy thì? Nó giống đôi “gò
bồng đảo”, giống cặp vú. Như vậy “nét xuân sơn” là đường
nét đôi gò bồng đảo.
Ánh mắt sắc như nước, đường nét đôi gò bồng
đảo của Thúy Kiều đẹp đến nỗi “hoa”
cũng phải “ghen thua thắm’, “liễu” cũng phải “hờn kém xanh”.
Cuối cùng có thể tóm tắt lại như sau:
Nét xuân sơn là đường
nét “đôi gò bồng đảo” của cô gái xuân sắc ở tuổi dậy thì Thúy Kiều, đẹp
đến nỗi “hoa thắm” cũng phải “ghen” vì thua kém.
Làn thu thủy là ánh mắt sắc
như nước, đến nỗi “liễu” cũng
phải “hờn” vì thua kém, nên ủ rũ “kém
xanh” (chứ không phải thua kém về màu xanh).