Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

THÔNG BÁO của Thi đàn bình thơ Trường Xuân


THÔNG BÁO
của Thi đàn bình thơ Trường Xuân

      Thi đàn bình thơ Trường xuân (TĐBT Trường Xuân) thuộc Hội Đá quý Việt Nam đã ra mắt vào ngày 22 tháng 01 năm 2013. TĐBT Trường Xuân gồm 9 ủy viên Ban chấp hành và các hội viên (HV) sáng lập. TĐBT Trường Xuân là một sân chơi mới của giới thi ca – những người làm thơ bình thơ và viết phê bình.
      TĐBT Trường Xuân xuất bản một Tập san lấy tên là Trường Xuân, 3 tháng ra một kỳ. Tập san gồm ba chuyên mục: thơ, chân dung tác giả và nghệ thuật thi ca:
      Thơ: Trong mục này sẽ đăng những bài thơ chọn lọc của HV TĐBT Trường Xuân, ngoài ra còn lựa chọn đăng những bài thơ hay của các tác giả thơ khác và chọn đăng những bài thơ hay trong các tập thơ, các tác giả gửi đến Hội đồng biên soạn.
      Chân dung tác giả: Chuyên mục gồm bài viết về tác giả và một chùm thơ chọn lọc tiêu biểu của tác giả đó, kèm theo ảnh chân dung.
      Nghệ thuật thi ca: Chuyên mục nhằm cung cấp thông tin về lý luận sáng tác và phê bình thơ. Bao gồm các bài viết chuyên sâu về các thể loại thơ, trường phái thơ, cách tân thơ… và những bài bình luận về một câu thơ, một bài thơ hay.
      Hội đồng biên soạn chúng tôi kính mời những người yêu thơ ca, thích viết bình luận gửi những bài bình luận có chất lượng và những bài thơ hay của mình để được đăng tải trong Tập san. Chúng tôi rất hân hạnh được tiếp nhận.   
      Những người yêu thơ ca không kể xa gần muốn gia nhập TĐBT Trường Xuân, chúng tôi rất hân hạnh được đón tiếp. Hội viên TĐBT Trường Xuân bao gồm HV gần và HV xa. HV gần là HV đến sinh hoạt thường kỳ, còn HV xa là HV không có điều kiện đến sinh hoạt thường kỳ được, thì gửi bài đến để được đăng trong Tập san.
      Bài vở xin gửi về Hội đồng biên soạn theo địa chỉ:
      Lê Thanh Long, số nhà 1, ngõ 93, phố Trung Kính, phường Trung Hòa,  
      Q. Cầu Giấy, Hà Nội (đề nghị đề rõ: chuyển phát tận nhà)
      Hoặc Email: lethanhlong123@yahoo.com.vn

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Một vài ý kiến nho nhỏ bình luận một số câu thơ trong Truyện Kiều


LÊ THANH LONG                                                
                                                 
                                                

Một vài ý kiến nho nhỏ bình luận
 một số câu thơ trong Truyện Kiều


      Tìm hiểu ý nghĩa từng câu, từng chữ trong Truyện Kiều, cho đúng với thâm ý của cụ Nguyễn Du là một việc làm cực kỳ khó khăn, nhưng rất thú vị, để cho độc giả hiểu một cách sâu sắc Truyện Kiều. Đó là một việc làm rất đáng trân trọng của Hội Kiều học Việt Nam, đang được đông đảo bạn đọc hoan nghênh, hưởng ứng. Đầu năm 2013, Hội Kiều học vừa ra tập sách đầu tiên KHUÔN TRĂNG… NÉT NGÀI… trong tủ sách “Trăm năm”
      Tìm hiểu ý nghĩa từng câu thơ trong Truyện Kiều là phải theo đúng nguyên bản (theo các bản hiện có), như ý kiến của Hội Kiều học là hết sức đúng đắn. Ta không nên thay đổi văn bản khi bình luận, dù đó có thể là hay hơn, dễ hiểu hơn nguyên bản, nhưng đó không phải là thơ của cụ Nguyễn Du, chưa nói, làm như vậy là thiếu tôn trọng cụ. Chúng tôi rất đồng ý với ý kiến của Hội Kiều học là phải xét câu thơ quan hệ với các câu thơ khác và có khi toàn tác phẩm Truyện Kiều, có như vậy mới hiểu được đúng ý những câu thơ khó trong Truyện Kiều.
      Sau đây tôi xin có một số ý kiến bình luận về một số câu thơ được cho là “khó” trong Truyện Kiều, còn có ý kiến tranh luận chưa ngã ngũ:
1.Nguyễn Du lột tả tinh thần nội tâm của Thúy Vân và Thúy Kiều trong có hai câu thơ
      Câu thơ:
17.Mai cốt cách, tuyết tinh thần
18.Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười (1)
      Được cụ Vân Hạc Lê Văn Hòe chú giải: Mai cốt cách: cốt cách thanh kỳ như cây mai, ý nói tầm vóc người dong dỏng cao, thanh thanh như cành mai (cành mai coi gầy guộc xương xẩu, thanh thanh). Mấy chữ này tả tầm vóc Kiều.
      Tuyết tinh thần: tinh thần trong trắng như tuyết, ý nói tư tưởng trong sạch, đầu óc ngây thơ, không bợn một chút gì ô trọc, tức là ngoan ngoãn nết na, thật thà chất phác. Mấy chữ này tả tính tình, đức hạnh của Thúy Vân.
      Cứ coi câu sau: Mỗi người một vẻ… thì biết rằng mai cốt cách là vẻ của người này, và tuyết tinh thần là vẻ của người kia, chớ có hai vẻ đó không chung cho cả hai chị em Kiều như người ta vẫn thường hiểu.
      Mười phân vẹn mười: giá như vẻ của mai cốt cách có mười phần thì Kiều có đủ cả mười phần; vẻ của tuyết tinh thần có mười phần thì Vân có đủ mười phần ấy.
      Mai cốt cách là vẻ đẹp của thân hình; tuyết tinh thần là vẻ đẹp của nết na. Tác giả muốn nói: một người thì thân hình hết sức đẹp, một người thì nết na hết sức ngoan.
      Truyện Kiều có cả thảy 3254 câu lục bát, nhưng Nguyễn Du lột tả tinh thần nội tâm của Thúy Vân và Thúy Kiều chỉ trong có hai câu thơ:
17.Mại cốt cách, tuyết tinh thần
18. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
      Theo chúng tôi, câu thơ thứ hai giải thích và làm rõ ý cho câu thơ thứ nhất, mang tính so sánh “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”, Thúy Vân và Thúy Kiều có khác nhau (Mỗi người một vẻ), nhưng đều toàn bích (mười phân vẹn mười). Mà đã so sánh thì phải so sánh cùng một loại hình nội dung: cùng so sánh về hình thể, hay cùng so sánh về tinh thần (ý nghĩ, tình cảm, đời sống nội tâm…), chứ không thể so sánh hình thể (thân hình, tầm vóc, khuôn hình…) của người này với tinh thần (tâm hồn, đời sống nội tâm…) của người kia được.
      Như vậy “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” phải được hiểu Nguyễn Du tả cùng một loại hình nội dung. “Tuyết tinh thần” thì đã rõ: nói về tinh thần, tính cách, tư tưởng, tâm hồn…, tức là Nguyễn Du muốn nói về vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp bên trong. Như vậy “Mai cốt cách” cũng phải hiểu là Nguyễn Du tả vẻ đẹp về tâm hồn bên trong, chứ không thể hiểu là vẻ đẹp về hình thể bên ngoài được (những câu thơ từ câu 19 trở đi Nguyễn Du so sánh vẻ đẹp hình thức bên ngoài của Thúy Vân và Thúy Kiều).
      Vậy “Mai cốt cách” là gì? “Mai cốt cách”tính cách như cây mai hay tính cách như hoa mai? Với một cô gái đẹp, con nhà khuê các, mới lớn 15 – 16 tuổi, mà ví như cây mai chịu sương, chịu gió, chịu giá rét, phong trần…  , thì e rằng không thích hợp. Vậy “Mai cốt cách” là Nguyễn Du ví tính cách như hoa mai, cũng trong trắng chẳng kém gì tuyết trắng, nhưng nếu hoa mai bị phơi ngoài nắng gió và giá rét, thì pha chút hồng, và càng nắng gió thì màu hồng càng đậm hơn. Hoa mai thích nghi được và thay đổi theo ngoại cảnh, tùy thuộc vào tình thế. Còn tuyết trắng thì dù có nắng gió, giá rét… tuyết vẫn trong trắng, tinh khiết, tinh khôi… Tinh thần hoa mai cũng trong trắng, trong sạch, nhưng có pha một chút hồng sắc sảo, không hoàn toàn thuần khiết như tuyết trắng. Từ “tinh thần” Nguyễn Du dùng ngày ấy giống như “tâm hồn” trong ngôn ngữ ngày nay. Từ “tinh thần” ngày nay đã mang một số ý nghĩa khác. Trong tinh thần như hoa mai và tinh thần như tuyết trắng, Nguyễn Du muốn ám chỉ ai? Thúy Vân hay Thúy Kiều? Đến đây đã rõ: Tinh thần như tuyết trắng là ám chỉ Thúy Vân, còn tinh thần như hoa mai là ám chỉ Thúy Kiều, Nguyễn Du đã chuẩn bị cho nhân vật Thúy Kiều sẽ phải trải phong trần, sương gió như hoa mai.

* Bản GS. Vũ Ngọc Khánh chú giải: Mỗi người một vẻ
   Bản Đào Duy Anh, hiệu khảo chú giải: mỗi người mỗi vẻ
   Tập sách: Khuôn trăng… nét ngài… cuộc tranh luận chưa kết thúc, chép là:     
   Một người một vẻ.

2. Bí quyết nghề nghiệp quan trọng bậc nhất của Tú Bà

      Trong các chỉ dẫn bí quyết nghề nghiệp của Tú Bà, người ta thắc mắc nhất là câu:
1213. Khi khóe hạnh, khi nét ngài
Vì sao vậy? Vì hiểu “khóe hạnh” là nhoẻn miệng cười và “nét ngài” là chau mày, là không đúng với ý thơ của Cụ Nguyễn Du, những hành động như vậy không có gì đặc biệt, nên không mê hoặc được khách làng chơi lắm tiền, nhiều của.
      Trong câu thơ Nguyễn Du sử dụng cụm từ khi… , khi… chia thành hai vế, hàm chứa tính chất đối lập của hành động, hay sự việc, tùy thuộc vào từng lúc, từng đối tượng khách làng chơi.
      Ta chú ý câu thơ:
1214. Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Khi thì đàn hát, ngâm thơ dưới trăng, khi thì cười cợt như hoa. Khi ngâm thơ là thể hiện người có học thức, có kiến thức, có tài, chỉ có con nhà quyền quý, con nhà lành mới có được phẩm chất này. Lúc nào dùng “chiêu” này? Tất nhiên là khi tiếp đón khách hàng là những trí thức có học vấn. “Khi cười cợt hoa” là hành động quyến rũ khách làng chơi bằng nụ cười, khóe mắt, sự nhí nhảnh, hồn nhiên… Hai vế của câu thơ này cũng có tính chất đối lập của hai hành động. Chúng ta chú ý đến bí quyết này mà Tú Bà dạy cho Thúy Kiều và các cô gái lầu xanh.
      Vì vậy, nếu câu: “Khi khóe hạnh, khi nét ngài” mà phân tích: “Khi khóe hạnh” là nhoẻn miệng cười hoặc liếc mắt đưa tình và nét ngài là chau mày, do chúng ta suy luận ra từ hình ảnh “hoa hạnh”, thì sẽ trùng với nội dung của câu “khi cười cợt hoa”, mà Nguyễn Du đã mô tả rõ ràng. Trong một bài bí quyết nghề nghiệp đâu có lặp lại hai lần một ý như nhau!
      Từ những dẫn giải ở trên, chúng tôi cho rằng trong câu “Khi khóe hạnh, khi nét ngài” Nguyễn Du cũng nói về hai sự việc hàm chứa tính chất đối lập nhau. “Khóe hạnh” không nhất thiết phải hiểu “hạnh”“hoa hạnh”, hạnh có hai nghĩa: hạnh là cây ăn quả họ đào, hạnh cũng có nghĩa là nết tốt của người con gái, “hạnh” có thể hiểu là “đức hạnh” như trong câu:
1469. Thương vì hạnh, trọng vì tài
1470. Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
      Theo ý chúng tôi “Khi khóe hạnh, thi nét ngài”bí quyết nghề nghiệp quan trọng bậc nhất, mà Tú Bà chỉ dẫn cho Thúy Kiều và các gái lầu xanh. Tại sao vậy?
      “Khi khóe hạnh” không phải là hành động chinh phục, mà là thủ đoạn chinh phục. “Khi khóe hạnh” là đóng kịch, dùng lời nói, dùng hành động của mình, dùng tài ứng biến, thuyết phục khách làng chơi rằng mình là con cái nhà lành, đức hạnh, thùy mị, lỡ cơ, bị ép buộc bán vào đây, làm rung động trái tim, làm mủi lòng, làm mê hoặc những kẻ giàu có, nhẹ dạ cả tin, giống như ngày nay các ả cave đóng giả là sinh viên, nghệ sỹ…
      Còn cụm từ “khi nét ngài” lại là phương thức hành động, cách thức hành động. Đó là cách dùng những đường nét cơ thể, cử động cơ thể, những bộ phận cơ thể: Đôi gò bồng đảo, cái eo cong, cặp mông gợi tình, dáng đi uyển chuyển, tha thướt…mà trời phú cho những cô gái trẻ, đẹp để chinh phục khách làng chơi (như trong bài “Một cách hiểu khác về câu thơ thứ 20” trong Tuyện Kiều, tôi đã giải thích rõ “nét ngài” là gì, Tủ sách “Trăm năm”, Khuôn trăng… nét ngài… cuộc tranh luận chưa kết thúc, trang 54).

3. Ánh mắt sắc như nước
      Câu thơ:
25. Làn thu thủy, nét xuân sơn
26. Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
tả sắc đẹp của Thúy Kiều.
Bản GS. Vũ Ngọc Khánh chú giải: Thu thủy: Nước mùa thu. Xuân sơn: Núi mùa xuân. Câu này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân.
Bản của cụ Vân Hạc Lê Văn Hòe cũng chú giải tương tự và thêm: Môi đỏ thắm đến nỗi hoa cũng phải ghen tỵ vì hoa thua thắm; mái tóc dài tốt và xanh đến nỗi tơ liễu cũng phải oán hờn vì liễu kém xanh (môi đỏ thắm, mái tóc dài tốt và xanh là suy luận không có trong văn bản).
      Nguyễn Du tả vẻ đẹp của Thúy Vân rất rõ ràng:
22. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Còn khi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Không biết cụ định tả cái gi? Cái gì như “làn thu thủy”, cái gì như “nét xuân sơn”? Làn thu thủy là gì? Nét xuân sơn là gì? Biết là Cụ tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, nhưng chủ thể của vẻ đẹp này là gì (bộ phận nào của cơ thể) thì hoàn toàn không biết. Vì chưa biết chủ thể, nên các chú giải cũng chỉ là suy đoán: Mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân (mắt Kiều, lông mày là suy luận, không có trong văn bản).
      Nếu hiểu “Làn thu thủy” là làn nước mùa thu và “nét xuân sơn” là nét núi mùa xuân, một cách đơn giản như vậy, thì không thể giải thích được tại sao “hoa” lại phải “ghen thua thắm”, “liễu” phải “hờn kém xanh”? Vì làn nước mùa thu và nét núi mùa xuân thì cũng chẳng có gì đặc biệt cho lắm.
      Nguyễn Du viết:
1323.Nàng càng ủ dột thu ba
1324.Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh
      Theo ý kiến chúng tôi, trong câu thơ 25, “thu”“xuân” không phải là mùa thu và mùa xuân, “thu”“thu ba”, “xuân” “xuân thì, xuân sắc”, tức là làn thu ba như nước, nét xuân thì như nét núi.
      Mắt là cửa sổ tâm hồn, ánh mắt thể hiện nội tâm, thể hiện tính cách, nội tâm và tính cách toát ra từ ánh mắt. Làn thu ba như nước là ánh mắt sắc như nước. Ánh mắt sắc như nước, cái nhìn sắc như nước, cái liếc mắt sắc như nước, thì không thể có bút nào tả cho đẹp hơn, hay hơn được nữa.
      Nét xuân thì, nét xuân sắc là đặc trưng của các cô gái 15 – 16 tuổi, cái tuổi dậy thì đẹp nhất của đời người con gái. Ở cái tuổi này tất cả các nét đẹp của cơ thể của tâm hồn đều bừng sáng lên đến độ cực đại. Nét xuân thì như nét núi. Vậy “nét núi” là nét gì? Ngày xưa người ta thường vẽ tranh bằng bút lông, vẽ một ngọn núi thường chỉ bằng một nét cong là ra hình một ngọn núi. Vẽ hai nét cong liên tiếp sẽ thành hai quả núi. Hai nét cong cong này chúng ta thấy nó giống cái gì của người con gái dậy thì? Nó giống đôi “gò bồng đảo”, giống cặp vú. Như vậy “nét xuân sơn”đường nét đôi gò bồng đảo.
      Ánh mắt sắc như nước, đường nét đôi gò bồng đảo của Thúy Kiều đẹp đến nỗi “hoa” cũng phải “ghen thua thắm’, “liễu” cũng phải “hờn kém xanh”.
      Cuối cùng có thể tóm tắt lại như sau:
      Nét xuân sơnđường nét “đôi gò bồng đảo” của cô gái xuân sắc ở tuổi dậy thì Thúy Kiều, đẹp đến nỗi “hoa thắm” cũng phải “ghen” vì thua kém.
      Làn thu thủyánh mắt sắc như nước, đến nỗi “liễu” cũng phải “hờn” vì thua kém, nên ủ rũ “kém xanh” (chứ không phải thua kém về màu xanh).