TỨ THƠ LÀ GÌ
LÊ THANH LONG
Tứ thơ là một khái
niệm rất quen thuộc trong thi ca, nhưng là một khái niệm
khá trìu tượng, mơ hồ, vẫn làm khó cho những người làm thơ muốn tìm hiểu về nó,
mặc dù đã có nhiều người bàn về vấn đề này.
Tứ thơ (thi tứ), một khái niệm hết sức hàm súc, phong phú mà
nền văn hóa Á Đông lâu đời của chúng ta đã đúc kết được.
Ý và tứ trong thơ hòa quyện với nhau, không thể tách ý thơ ra khỏi lời thơ. Ý là nội dung, ý nghĩa bài thơ. Tứ là linh hồn bài thơ, cái làm toát lên vẻ đẹp, sắc thái của bài thơ. Ý trong thơ không rõ ràng như trong văn xuôi, nó mơ hồ, huyền ảo, lung linh, không dễ nắm bắt, thông qua tứ thơ để hiểu ý trong bài thơ.
Ý và tứ trong thơ hòa quyện với nhau, không thể tách ý thơ ra khỏi lời thơ. Ý là nội dung, ý nghĩa bài thơ. Tứ là linh hồn bài thơ, cái làm toát lên vẻ đẹp, sắc thái của bài thơ. Ý trong thơ không rõ ràng như trong văn xuôi, nó mơ hồ, huyền ảo, lung linh, không dễ nắm bắt, thông qua tứ thơ để hiểu ý trong bài thơ.
Khái niệm tứ thơ được
bàn tới cách đây hơn 1500 năm. Trong Văn tâm điêu long, ở
thiên Thần tứ, Lưu Hiệp (đời nhà Lương) đã bàn rất sâu và rất kỹ về
tứ. Theo ông, tứ thơ là một cái gì đó rất phi thường: “Cái tứ của văn chương,
cái thần của nó xa lắm. Cho nên khi ta lặng lẽ ngừng suy nghĩ lại một chỗ thì
cái tứ tiếp với ngàn năm. Ta trầm lặng thay đổi sắc mặt một chút thì cái nhìn của
ta đã thông suốt đến vạn dặm”.
Nhiều nhà thơ đã nói về tứ thơ:
- Tứ thơ là xương sống của bài thơ.
- Tứ thơ là trụ cột của ngôi nhà thơ.
- Tứ thơ là nhân ở trung tâm bài thơ, chi phối ra toàn bài thơ.
- Tứ thơ là cách liên kết, cấu trúc của các ý thơ nhằm tập trung thể hiện có hiệu quả nhất chủ đề trữ tình.
Những khái niệm này cũng đã tiếp cận phần nào về tứ thơ, nhưng dường như điều bí mật của tứ thơ vẫn chưa được hé mở.
Về tầm quan trọng của tứ thơ, Xuân Diệu đã viết: “Ngôn từ, lời chữ, vần rất là quan trọng, bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái quan trọng thứ hai. Mà cái quan trọng thứ nhất làm rường cột cho tất cả là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài. Làm thơ khó nhất là tìm tứ”.
- Tứ thơ là xương sống của bài thơ.
- Tứ thơ là trụ cột của ngôi nhà thơ.
- Tứ thơ là nhân ở trung tâm bài thơ, chi phối ra toàn bài thơ.
- Tứ thơ là cách liên kết, cấu trúc của các ý thơ nhằm tập trung thể hiện có hiệu quả nhất chủ đề trữ tình.
Những khái niệm này cũng đã tiếp cận phần nào về tứ thơ, nhưng dường như điều bí mật của tứ thơ vẫn chưa được hé mở.
Về tầm quan trọng của tứ thơ, Xuân Diệu đã viết: “Ngôn từ, lời chữ, vần rất là quan trọng, bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái quan trọng thứ hai. Mà cái quan trọng thứ nhất làm rường cột cho tất cả là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài. Làm thơ khó nhất là tìm tứ”.
Đứng trên phương diện
một bài thơ cụ thể, người ta có thể nêu ra một số nhận định khác:
Một, cốt lõi của bài
thơ là cái tứ.
Hai, mỗi bài thơ chỉ
có một tứ duy nhất. Ý có thể giống nhau, nhưng mỗi bài thơ chỉ có một tứ.
Ba, yếu tố quan trọng
nhất quyết định giá trị một bài thơ chính là cái tứ.
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng những bài thơ hay thường có tứ thơ
độc đáo. Thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ, nhưng đó mới chỉ là điều quan trọng
thứ hai, làm thơ khó nhất là tìm tứ. Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ cực kì độc
đáo, bắt người tiếp nhận phải nhớ, ngạc nhiên, cảm xúc về cách tổ chức ngôn ngữ
đó.
Thơ sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, cái độc đáo, kì lạ, thú vị,
nó thể hiện tài năng của tác giả. Chủ đề của bài thơ là nói về cái gì, tứ thơ
là nói bằng cách nào cho độc đáo, kết thúc bài thơ hay thường bất ngờ, nâng tầm
bài thơ lên một đỉnh cao mới. Tứ là cái cách để thể hiện ra cái ý định nói,
muốn nói. Như vậy có nhiều cách để thể hiện ra một ý nào đó, một điều suy nghĩ
nào đó, định mô tả. Nhưng cái cách thể hiện ra đó phải độc đáo, khác thường thì
mới được gọi là tứ.
Cùng là một ý, nhưng
thơ của mỗi người mỗi khác vì cách diễn đạt ý không ai giống ai. Đó là vì tứ mỗi
người một khác. Trong một trường thi
ngày xưa tất cả các thí sinh có chung một đề thi là làm một bài thơ theo một chủ
đề, kết quả là có bao nhiêu thí sinh tham gia thì có bấy nhiêu bài thơ mà không
bài nào giống bài nào vì cách diễn đạt ý đã cho không ai giống ai. Người diễn đạt
hay nhất thì đỗ trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, cách diễn đạt đó chính là tứ
thơ. Cho nên thơ phải có tứ, thơ nào tứ ấy, chỉ có tứ thơ hay, hoặc tứ thơ
không hay chứ không có bài thơ mà không có tứ.
Tứ thơ thể hiện tài năng sáng tạo của nhà thơ, tứ thơ càng kín đáo
càng hay. Lê Quý Đôn có lời khuyên về thi pháp thơ “Mạch kị thẳng, ý kị lộ”. Tứ
thơ thường có mục đích quy tụ đến một tư tưởng nào đó cao hơn. Tư tưởng này lại
do chính người đọc tiếp nhận, phát hiện ra, thông qua tứ thơ, chứ không phải do
tác giả áp đặt. Khi đi sâu vào phân tích tứ thơ của một bài thơ, có khi lại làm
hỏng mục đích của người muốn phân tích, vì vậy người ta chỉ nói đến tứ thơ
chung chung, để người đọc tự hiểu về cái tứ thơ vô hình đó.
Có người nói: “Tứ thơ là một khám phá”. Rất cô đọng và chính xác.
Đây mới thực sự đi vào đặc trưng của lao động sáng tạo trong thế giới tinh thần
nhiều ảo diệu mơ hồ là thơ.
Tứ thơ mang nội hàm khám phá chủ yếu ở ba yếu tố chính: khác
thường, đột biến, bất ngờ.
Một bài thơ gọi là có tứ, phải ít nhất có một trong ba yếu tố ấy, hay nói cách khác, không có khám phá thì không thành tứ và không thành thơ, chỉ là văn vần giống như thơ mà thôi.
Một bài thơ gọi là có tứ, phải ít nhất có một trong ba yếu tố ấy, hay nói cách khác, không có khám phá thì không thành tứ và không thành thơ, chỉ là văn vần giống như thơ mà thôi.
Trần Huyền Trân có
bài thơ lục bát tuyệt hay “Ngõ trúc” sau này đổi lại là “Thu”:
Mưa rơi trắng lá rau tần
thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
người về khép lại song thưa
để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng
Mưa rơi phủ trắng lá
rau tần là mưa bay mù trời, như sương khói bốc lên từ thuyền tình ai đó đang xa
dần bến mưa, bến chia ly “thuyền ai bốc
khói xa dần bến mưa”. Người đi, “khép
lại song thưa”, “để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng”, cái ngõ trúc ngày xưa với
mối tình của đôi trai gái đẹp như mơ, vậy mà bây giờ chỉ còn lại những chiếc lá
vàng “tương tư” héo úa, và nỗi niềm khổ đau. Bài thơ nói về nỗi
buồn chia ly.
Chắc ít người nhớ
bài thơ “Về đây” của Cung Trầm Tưởng:
Về đây tôi lại gặp tôi
lang thang lối cũ trước đồi sau nương
ngô đồng lả ngọn thuần lương
trời cao không đỉnh, mến thương không bờ
cố tri khóm trúc bây giờ
vẫn bừng hoa nở đứng chờ lối xưa
vẫn hanh vàng nắng toả vừa
hiu hiu tùng rủ bóng chưa hao gầy
về đây tôi lại về đây
non lên thắm nhớ, chiều đầy khoan dung
chân vui lối rộn khôn cùng
gần xa trời mở vòng cung thâu vào
chân phương lòng thấy nao nao
với muôn thương mến lên cao hôn trời.
Bài thơ nói về nỗi
vui của người xa quê khi trở về gặp lại những kỷ niêm xưa, với nỗi niềm nhớ
thương vô bờ bến.
Cái tứ thơ kỳ diệu,
huyền hoặc đã làm cho bài thơ không bao giờ cũ, chính tứ thơ đã làm cho bài thơ
trở nên bất tử.
Hà Nội ngày 18.3.2020
LÊ THANH LONG
hay quá
Trả lờiXóaPhân tích thơ rất cần bài viết của bạn. Cảm ơn vì đã định nghĩa cũng như lời giải thích của bạn.
Trả lờiXóa