GIỚI
THIỆU CUỐN SÁCH MỚI IN
“Truyện
Kiều chuyển sang văn xuôi”
Ai đọc Truyện Kiều
cũng phải công nhận là Truyện Kiều
hay ở văn chương, ở việc phân tích tâm lý, miêu tả nhân vật như thật, y hệt như
trong đời sống thực. Và cái hay, cái kỳ lạ của văn chương đó chính là lời thơ lục
bát. Thơ Kiều là loại thơ ước lệ, tượng trưng, tu từ… nên càng đọc, càng ngấm,
càng thấy hay. Nhưng chính điều kỳ bí văn chương này lại làm cho người đọc khó
hiểu và gây ra nhiều cuộc tranh luận, phân tích về những điều kỳ bí đó.
Tác giả chuyển cuốn Truyện
Kiều sang văn xuôi theo cách giữ nguyên lời thơ của Nguyễn Du, chỉ thêm vào
những từ ngữ, những chỗ, những đoạn, mà ông đã lược bớt cho phù hợp với luật
thơ lục bát. Tác giả cố gắng thêm câu chữ vào cho đúng theo nguyên ý Nguyễn Du
và giữ nguyên văn cảnh, đồng thời giải thích những từ cổ, từ Hán ngữ sang tiếng
Việt hiện đại, để bạn đọc phổ thông hiểu được Truyện Kiều một cách dễ dàng.
Đọc cuốn sách “Truyện
Kiều chuyển sang văn xuôi”, chúng ta sẽ hiểu rõ tường tận chính xác trực tiếp
ý nghĩa và nội dung tác phẩm do chính Nguyễn Du xây dựng nên, do Truyện Kiều
mang lại. Nguyễn Du viết Truyện Kiều
theo ý riêng của mình, theo cách của ông, chứ không dịch Kim Vân Kiều truyện. Nó khác biệt rất lớn so với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân.
Mặc dù Nguyễn Du dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện, giữ nguyện tuyến nhân vật chính, nhưng thay đổi
tính cách nhân vật, hình dáng nhân vật để thể hiện tính cách mới của nhân vật,
thay đổi trình tự câu chuyện, nội dung câu chuyện, tiết tấu câu chuyện nhanh, hấp
dẫn, hết sự kiện nọ, chuyển ngay sang sự kiện kia, không rườm rà, dài dòng. Đặc
biệt Nguyễn Du thêm vào phần tả cảnh, cảnh gắn với tình rất tuyệt vời, rất ấn
tượng, mà trong Kim Vân Kiều truyện
không hề có.
Cốt truyện được sắp xếp lại, ngắn gọn hơn, chọn lọc hơn, sự
kiện nối tiếp nhau. Các tình tiết đảo lộn trước sau.
Nguyễn Du chỉ lấy khoảng 1/4 sự kiện trong Kim Vân Kiều
Truyện để viết ra 1.313 câu thơ, còn lại 1.941 câu thơ là do ông sáng tác ra,
trong tổng số 3254 câu thơ lục bát trong Truyện
Kiều.
Để dễ theo dõi khi đọc, chúng tôi chia cuốn sách ra làm 35
đoạn, đặt đầu đề phù hợp với nội dung câu chuyện.
Diễn Truyện Kiều
sang văn xuôi trên cơ sở dẫn giải, giải thích và đôi khi bình giải chi tiết từng
câu thơ, kể cả những từ khó, những câu thơ khó, trên quan điểm mới, hiện đại,
mong muốn độc giả ngày nay đọc hiểu Truyện
Kiều một cách dễ dàng hơn và hiểu sâu sắc hơn.
Cuốn sách được viết một cách nhẹ nhàng, dễ đọc. Bằng cách
chuyển một đoạn thơ thành một đoạn văn dễ hiểu. Những kiến thức mới nhất đã được
cập nhật kịp thời.
Để không làm mất đi những tinh hoa của Truyện Kiều, giữ được tinh túy và bản sắc của Nguyễn Du, chúng tôi
giữ lại gần như nguyên vẹn lời thơ của Nguyễn Du, chỉ thêm vào những câu chữ
Nguyễn Du lược bớt do hạn chế về vần điệu và giới hạn số chữ của thơ lục bát, đồng
thời chúng tôi sắp xếp lại theo cách hành văn thông thường của văn xuôi.
Lúc nào rảnh rỗi hoặc muốn thư giãn các bạn mở sách ra đọc
và như Nguyễn Du đã nói “mua vui cũng được
một vài trống canh”.
Thơ Kiều Nguyễn Du đầy bí ẩn và mênh mông, không phải ai
cũng có thể thấu hiểu căn kẽ Truyện Kiều,
mặc dù có thể đã đọc đi đọc lại nhiều lần, đó chính là sự kỳ lạ, bí hiểm của Truyện Kiều. Truyện Kiều càng đọc kỹ,
càng thấm, càng thấy hay.
Trong Truyện Kiều
các nhân vật gắn liền với con người và tâm lý trong xã hội… giống thật đến nỗi
người Việt Nam tưởng đây là câu chuyện xẩy ra ở Việt Nam, ngược lại người Trung
Quốc lại nghĩ đó là câu chuyện ở đất nước Trung Hoa.
Đọc cuốn sách này bạn đọc sẽ hiểu được từng chữ, từng câu
thơ trong Truyện Kiều.
Tác giả viết cuốn sách này như một món quà chân thành, một
món ăn tinh thần mới mẻ, dành cho lớp trẻ và những người yêu mến Truyện Kiều đọc và tiếp nhận Truyện Kiều một cách dễ dàng. Cũng là một
cách để tri ân Đại thi hào Nguyễn Du, đã để lại cho đời một thiên tuyệt bút, đã
vang vọng ra năm châu bốn biển, làm rạng rỡ, vẻ vang cho nền văn chương, cho tiếng
Việt nước nhà.
Hy vọng cuốn sách sẽ thỏa mãn được mong muốn của độc giả, bạn
sẽ có nhiều hứng thú khi đọc Truyện Kiều
chuyển sang văn xuôi. Cuốn sách sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu Truyện Kiều.
Cuốn sách được chia thành 35 đoạn, sau đây chúng tôi xin trích
đăng đoạn đầu trong cuốn sách
I
Gia đình Vương Viên ngoại
tài sắc Thúy Vân, Thúy Kiều
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn
kém xanh.
Một hai nghiêng nước
nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành
họa hai.
Ngẫm trong cõi người chúng ta đang sống, đời người sống được
trăm năm, “trăm năm trong cõi người ta”,
tài và mệnh rõ khéo là hay ghen ghét nhau, tài năng và số mệnh, số phận của mỗi
con người không phải lúc nào cũng đi đôi song hành với nhau, tài và mệnh hay đố
kỵ nhau một cách lạ lùng, “chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau”.
Không còn xa lạ gì với cái lẽ thường tình ở đời là được mặt
này hơn thì kém mặt kia, “lạ gì bỉ sắc tư
phong”, hơn về tài sắc thì lại kém về mệnh số, được mặt này thì mất mặt
kia, người có tài không phải lúc nào cũng thành công. Đó là quy luật bù trừ của
tạo hóa. Con tạo, tạo hóa xưa nay vốn quen với việc đánh ghen với khách má hồng”,
người đàn bà đẹp “trời xanh quen với má hồng
đánh ghen”. Tạo hóa tạo ra thế giới muôn loài, tạo ra người đàn bà đẹp sao
phải đánh ghen, mà chỉ đánh ghen với khách má hồng, chứ không phải đánh ghen với
đàn bà nói chung?
Trời xanh, con tạo, tạo hóa… cái thế lực vô hình đó là gì,
là ai, mà lại hay đánh ghen với khách má hồng. Ông xanh, con tạo… là cách nói
tượng trưng, ước lệ, thực tế ra đây là một thế lực xã hội, đó là thói đời thường
hay ghen tỵ, đánh ghen lẫn nhau, nhất là với những người đàn bà tài sắc và vì đẹp
nên được nhiều người đàn ông để ý, yêu thương, tranh giành, nên hay gặp chuyện
rắc rối, long đong, gian truân. “Đã cho lấy
chữ hồng nhan/ Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân”/ Đã đầy vào kiếp phong trần/
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”.
Ta đọc câu thơ sau đây sẽ hiểu từ “con tạo” mà Nguyễn Du muốn nói đến là gì: “Cũng liều nhắm mắt đưa chân/ Để xem con tạo xoay vần đến đâu”. “Con tạo” ở đây nghĩa là “sự đời”. Cũng liều nhắm mắt đưa chân, để
xem sự đời nó xoay vần đến đâu?
Trong đời một con người trải qua những sự biến đổi của thời
cuộc, bãi bể biến thành nương dâu, “trải
qua một cuộc bể dâu”. Nhìn thấy
những sự đảo lộn, đau thương của đời người trong xã hội, mà đau đớn lòng, “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Nguyễn Du mở pho sách thơm, pho sách hay, đọc từng trang,
nghiền ngẫm từng trang trước ngọn đèn, câu chuyện tình yêu nam nữ, có màu xanh,
được truyền lại trong sử sách, “cảo thơm lần giở trước đèn”, “phong tình có
lục còn truyền sử xanh”. Hai câu thơ này Nguyễn Du muốn ám chỉ ông viết cuốn
truyện thơ “Đoạn trường tân thanh” tức
Truyện Kiều là dựa theo câu chuyện tình nam nữ, đã được sử sách chép lạị.
Vào năm Gia Tĩnh triều Minh (niên hiệu Minh Thế Tông, 1522
- 1566) bên Trung Quốc bốn phương yên bình, phẳng lặng, hai kinh đô là Bắc Kinh
và Nam Kinh đất nước vững vàng, “rằng năm
Gia Tĩnh triều Minh”, “bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng”. Có một
gia đình Vương viên ngoại, “có nhà viên
ngoại họ Vương”, của cải trong nhà, cũng vào loại bậc trung, “gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”,
sinh hạ được ba người con. Đầu lòng là
hai cô con gái đẹp, “đầu lòng hai ả Tố
Nga”, “thúy Kiều là chị, em là Thúy
Vân”, một con trai út, tên chữ là
Vương Quan theo nghiệp nho gia, “vương
Quan là chữ nối dòng nho gia”.
Cô chị Thúy Kiều tính cách như cây mai, cô em Thúy Vân đức
tính trong sạch như tuyết trắng, “mai cốt
cách, tuyết tinh thần”, “một người một vẻ mười phân vẹn mười”.
Cô em Thúy Vân xem ra trang trọng khác người, “Vân xem trang trọng khác vời”, đôi gò bồng
đảo đầy đặn, đẹp đẽ, đường nét cơ thể nở nang, khỏe mạnh, “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”, cười tươi như hoa, nói năng
đoan trang, “hoa cười ngọc thốt đoan
trang”. Mái tóc mềm mại, óng mượt như mây, mà “mây” còn “thua nước tóc”
, da trắng như tuyết, mà tuyết vẫn còn phải nhường nhịn chịu thua màu da của
Thúy Vân.
Cô “Kiều càng sắc sảo,
mặn mà” có duyên, so về mặt tài sắc
còn hơn cả cô Thúy Vân, “so bề tài sắc lại
là phần hơn”. Đôi mắt nàng Kiều mơ màng trong như nước mùa thu, nét lông
mày xanh như núi mùa xuân, “làn thu thủy
nét xuân sơn”, hoa đẹp như vậy, cũng phải ghen, vì thua sắc thắm của đôi
môi và đôi má hồng, liễu cũng phải ghen và hờn giận vì thua kém về màu xanh, “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Sắc đẹp của Thúy Kiều liếc nhìn một cái có thể làm cho mất
nước, liếc nhìn hai cái có thể làm
nghiêng đổ cả thành trì, “một hai nghiêng nước nghiêng thành”, sắc
đẹp nhiều lắm trên đời này cũng chỉ có một, còn tài họa ra có được hai người, “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.
Về trí thông minh vốn tính trời phú cho sẵn có, “thông minh vốn sẵn tính trời”, vừa biết
làm thơ, vừa biết vẽ tranh, ngoài ra còn biết ca hát và ngâm thơ đủ vẻ, “pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”.
Về âm nhạc thì âm luật lầu lầu ngũ cung: cung, thương, giốc,
chùy, vũ, “cung thương lầu bậc ngũ âm”,
có nghề riêng gảy đàn hồ cầm, hơn hẳn mọi người, “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”, trương là cây đàn.
Hồ cầm là đàn nguyệt, còn gọi là đàn Nguyễn do người họ
Nguyễn bên Trung Quốc làm ra.
Thúy Kiều còn tự soạn ra khúc nhạc riêng, bài đàn riêng để
đánh đàn, “khúc nhà tay lựa nên chương”,
đó là một thiên “Bạc mệnh”, tấu lên
nghe não lòng người, “một thiên bạc mệnh
lại càng não nhân”.
Thúy Kiều có đời sống phong lưu, thanh nhàn, sang trọng vào
bực nhất trong đám khách hồng quần, “phong
lưu rất mực hồng quần”, tuổi xuân xấp xỉ tới thời kỳ cài trâm, “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”.
Phụ nữ khá giả xưa bên Trung Quốc thường mặc quần màu đỏ.
Thiếu nữ Trung Quốc xưa 15 tuổi là đến thời kỳ được cài trâm, dấu hiệu đến tuổi
lấy chồng.
Tuy vậy Thúy Kiều vẫn “êm
đềm trướng rủ màn che”. “tường đông
ong bướm đi về mặc ai”, nàng cấm cung không giao lưu với con trai, tường
đông là tường nhà phía đông, phương Đông chỉ nam giới, Thúy Kiều chưa bận tâm tới
điều đó.
Sắc đẹp của Thúy Kiều là số một, còn tài thơ văn, nhạc, họa
may ra còn có người hơn, một cô gái còn trinh trắng.
Thúy Kiều là một cô gái thuộc tầng lớp trung lưu, có văn
hóa, cao sang, được giáo dục đến nơi đến chốn.
THỜI
GIAN TRONG TRUYỆN KIỀU
LÊ
THANH LONG
Trong Truyện Kiều nhiều lần Nguyễn Du nói đến thời gian và khoảng
thời gian chỉ mốc thời gian xẩy ra các sự kiện, vậy thời gian và khoảng thời
gian đó thể hiện ra như thế nào và chính xác đến mức nào?
1. Thời gian Kim Trọng về hộ tang chú
Nguyễn Du viết câu thơ rất hay mà ai cũng thích:
2747. Trước sau nào thấy
bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười
gió đông
Nhiều người đọc câu thơ này nghĩ rằng sau một năm Kim Trọng mới trở
lại, vì câu thơ có chữ “năm ngoái”. Nhưng
thực ra chữ “năm ngoái” ở đây không
phải để chỉ thời gian cái năm ngoái lúc hai người gặp nhau khi hoa đào đang nở.
Mà “hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”
là nói về bông hoa đào Thúy Kiều, lúc gió đông về, tức gió xuân về, lúc đó đang
nở đẹp rực rỡ, mà bây giờ không thấy bông hoa đào ấy đâu nữa.
Khi Kim Trọng chia tay Thúy Kiều về hộ tang chú, Kim Trọng nói với
Thúy Kiều:
543. Ngoài nghìn dặm chốc
ba đông,
Mối sầu khi gỡ cho xong còn
chầy!
Ông chú không có con trai, Kim Trọng là cháu thừa tự nên phải về
Liêu Dương hộ tang chú ba năm. Ở ngoài xa hàng nghìn dặm, xa nhau ba năm, không
bỗng chốc mà có thể trở lại gặp nhau được, mối sầu chia ly này, gỡ cho xong còn
lâu lắm đấy. Nhưng thực tế Kim Trọng về hộ tang chú, chỉ sau 6 tháng đã quay trở
lại Bắc Kinh:
2741. Từ ngày muôn dặm phù
tang,
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại
nhà.
2. Kim Trọng về chịu tang chú và trở lại
Bắc Kinh là vào thời điểm nào?
Kim Trọng và Thúy Kiều gặp nhau trong Hội Đạp thanh vào đầu tháng
ba:
39.Ngày xuân con én đưa
thoi,
Thiều quang chín chục đã
ngoài sáu mươi
Ánh sáng mùa xuân có chín mươi ngày mà đã ngoài sáu mươi ngày là đã
bước sang đầu tháng ba:
43. Thanh minh trong tiết
tháng ba,
Lễ là tảo mộ ngày là đạp
thanh
Gặp Thúy Kiều ở Hội Đạp thanh về, Kim Trọng thuê trọ ở nhà Ngô Việt
thương gia được hai tháng 287. Nhẫn từ
quán khách lân la/ Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai, thì gặp lại Thúy
Kiều, hai người hứa hẹn trăm năm và trao nhau của tin, lúc này là vào cuối
xuân. Đến đầu hạ Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau ở nhà trọ của Kim Trọng:
369. Lần lần ngày gió đêm
trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng
xuân qua.
Nhân dịp cả nhà đi dự sinh nhật bên nhà ngoại, Thúy Kiều đem theo đồ
ăn sang gặp Kim Trọng:
377. Thời trân thức thức sẵn
bày,
Gót sen thoăn thoắt dạo
ngay mé tường
Hai người cắt tóc ăn thề:
447. Tiên thề cùng thảo một
chương,
Tóc mây một món dao vàng
chia đôi.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời
song song.
Đôi trai gái gặp nhau được đúng một ngày thì Kim Trọng chia tay
Thúy Kiều về hộ tang chú, đó là vào đầu hạ. Sáu tháng sau Kim Trọng trở lại nhà
ở Bắc Kinh, đến nhà Thúy Kiều, đó là vào đầu đông. Lúc này nhà Thúy Kiều đã là
nhà hoang:
2747. Trước sau nào thấy
bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười
gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Như vậy Kim Trọng trở lại là vào đầu đông. Đầu đông hoa đào chưa thể
nở được.
3. Từ Hải chia tay thúy Kiều sau bao lâu
thì quay về cưới Thúy Kiều?
Từ Hải sống với Thúy Kiều được nửa năm thì “trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương” nên chia tay Thúy Kiều
đi tìm sự nghiệp:
2213. Nửa năm hương lửa
đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng
bốn phương.
Trông vời trời bể mênh
mông,
Thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng giong.
Thúy Kiều muốn đi theo, Từ Hải nói với Thúy Kiều:
2227. Đành lòng chờ đó ít
lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội
gì.
Vậy có phải một năm sau Từ Hải đã quay về cưới Thúy Kiều?
Theo ý chúng tôi Từ Hải nói câu này chỉ là để động viên Thúy Kiều ở
lại, chứ Từ Hải không thể dự đoán được chỉ một năm sau đã hoàn thành sự nghiệp
thu phục non sông. Vậy Từ Hải đi bao lâu thì quay lại cưới Thúy Kiều. Nguyễn Du
chỉ nói đến nỗi nhớ của Thúy Kiều hướng về phương trời xa xôi đăm đăm, nhớ đến “mòn con mắt” cái nơi đôi cánh chim hồng
hạc đang bay bổng tuyệt vời ở phương trời sự nghiệp:
2247. Cánh hồng bay bổng
tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời
đăm đăm.
Thúy Kiều trong khi nghĩ về bố mẹ có nói một câu:
2239. Chốc đà mười mấy năm
trời,
Còn ra khi đã da mồi tóc
sương.
Câu thơ này cũng chỉ cho ta biết chung chung là Thúy Kiều đi khỏi
nhà đã được hơn chục năm.
Thúy Kiều nhìn thấy Từ Hải lúc trở về cưới Thúy Kiều, nhân xét:
2273. Rỡ mình lạ vẻ cân đại,
Hãy còn hàm én mày ngài như
xưa.
Dựa vào những câu thơ nêu ra ở trên và sự nghiệp Từ Hải đạt được,
ta có thể dự đoán là Từ Hải đi rồi quay lại cũng khá lâu chứ chắc không phải một
năm.
Nguyễn Du nói về sự nghiệp của Từ Hải:
2449. Trước cờ ai dám tranh
cường,
Năm năm hùng cứ một phương
hải tần.
Trước mặt Hồ Tôn Hiến Thúy Kiều ca ngợi sự nghiệp của Từ Hải:
2555. Năm năm trời bể ngang
tàng,
Dấn mình đi bỏ chiến trường
như không.
Từ khi đi gây dựng sự nghiệp đến khi chiếm được 5 huyện thành là 5
năm.
Quãng thời gian sau khi Từ Hải giúp Thúy Kiều trả được mối thù
riêng đến khi bị Hồ Tôn Hiến lừa và bị chết đứng, Nguyễn Du chỉ mô tả:
2439. Thừa cơ trúc chẻ ngói
tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong
ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn
hà.
Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện Thành đạp đổ năm tòa
cõi nam.
Từ những mô tả trên, ta không thể biết được Từ Hải đã đi bao lâu rồi
quay về.
Thời gian Kiều lưu lạc là 15 năm. Từ Hải “năm năm hùng cứ một phương hải tần”. Như vậy khi Từ Hải chia tay
Kiều ra đi lập nghiệp thì Kiều đã lưu lạc được trên 10 năm. Trong lời tâm sự nhớ
bố mẹ Thúy Kiều nói “chốc đà mười mấy năm
trời, còn ra khi đã da mồi tóc sương”. Như vậy lúc này Thúy Kiều đã lưu lạc
được mười mấy năm trời rồi, suy ra Từ Hải đã ra đi được mấy năm chứ không phải
1 năm.
Trong Kim Vân Kiều truyện
có nói Từ Hải tức Từ Minh Sơn đi ba năm:
“Lại nói, Thúy Kiều thấy Từ Minh Sơn đi luôn ba năm tuyệt nhiên
không có tin tức gì cả. Một ngày kia bỗng có tin quân giặc kéo đến rất đông,
nhân dân trong vùng đều chạy trốn hết. Bọn người nhà đều giục Thúy Kiều nên rời
chỗ ở…”
“Cách ít lâu, bỗng có toán quân đông ước vài nghìn và hơn mười vị
tướng, thình lình kéo đến, vây quanh ngôi nhà, rồi hô lớn:
- Vương phu nhân có ở đây không? Chúng tôi phụng mệnh Từ Minh Sơn
thiên tuế đến đón phu nhân!”
4. Thúy Kiều bán mình vào lúc nào?
Thúy kiều bán mình cùng thời gian Kim Trọng về hộ tang chú và chỉ
sau vài ngày hai người gặp nhau ở nhà trọ của Kim Trọng.
Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng lúc đầu hè:
369. Lần lần ngày gió đêm
trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng
xuân qua.
Ngay sáng hôm sau Kim Trọng nhận được tin phải về hộ tang chú, vài
ngày sau Kim Trọng lên đường về Liêu Dương:
565. Buồn trông phong cảnh
quê người,
Đầu cành quyên nhặt cuối trời
nhạn thưa.
Ngay sau đó gia đình Vương Ông vướng vào lao lý và Thúy Kiều phải
bán mình chuộc cha:
605. Quyết tình nàng mới hạ
tình:
“Dẽ cho để thiếp bán mình
chuộc cha”
Mã Giám Sinh mua và cưới Thúy Kiều vào đầu hạ. Trên đường Mã Giám
Sinh đưa Thúy Kiều đi đã là mùa thu:
911. Nàng thì dặm khách xa
xăm,
Bạc phau cầu giá đen rầm
ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một
người.
917. Rừng thu từng biếc xen
hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng
thần hôn.
Mã Giám Sinh đưa Thúy Kiều đến lầu xanh của Tú Bà mất một tháng:
919. Những là lạ nước lạ
non,
Lâm Tri vừa một tháng tròn
đến nơi
Lúc này có lẽ đã là vào giữa thu. Như vậy từ lúc Thúy Kiều bán mình
cho Mã Giám Sinh đến khi đến lầu xanh của Tú Bà là khoảng 4 - 5 tháng; từ đầu hạ
đến khoảng giữa thu.
Sau đó Tú Bà đưa Kiều đến lầu Ngưng Bích. Thúy Kiều làm thơ nói về “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Sở
Khanh nghe thấy và họa vần. Lúc này vẫn là mùa thu:
1073. Song thu đã khép cánh
ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt
đanh
Sở Khanh đưa Kiều đi trốn vẫn trong mùa thu:
1119. Đêm thu khắc lậu canh
tàn,
Gió cây trút lá trăng ngàn
ngậm gương.
5. Thúc Sinh chuộc và cưới Thúy Kiều vào
lúc nào?
Thúc Sinh gặp Thúy Kiều vào đầu xuân và sau đó chuộc Kiều ra khỏi lầu
xanh:
1283. Hải đường mơn mởn
cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa
càng nồng.
Nguyệt hoa hoa nguyệt não
nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được
chăng!
Đôi trai gái sống với nhau được nửa năm từ đầu xuân cho đến đầu
thu:
1385. Nửa năm hơi tiếng vừa
quen,
Sân ngô cành biếc đã chen
lá vàng.
Giậu thu vừa nảy giò sương,
Gối yên đã thấy xuân đường
tới nơi.
Thúc Ông trở lại nổi giân và đưa đơn kiện lên quan phủ. Quan phủ giảng
hòa và còn làm lễ cưới cho đôi trai gái Thúc Sinh - Thúy Kiều. Như vậy là Thúc
Sinh cưới Thúy Kiều vào đầu thu. Hai người sống với nhau được một năm từ đầu
thu năm nay sang đầu thu năm sau thì Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả
Hoạn Thư.
6. Thúc Sinh về nhà thăm Hoạn Thư hai lần
vào lúc nào?
Thúc sinh và Thúy Kiều sống với nhau từ đầu thu, qua đông, qua xuân
sang đến hạ:
1473. Mảng vui rượu sớm cờ
trưa,
Đào đà phai thắm sen vừa nẩy
xanh
Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh về thú thật với vợ cả Hoạn Thư là mình lấy
vợ lẽ. Đến lúc này hai người đã cưới nhau được một năm:
1487. Mà ta suốt một năm
ròng
Thế nào cũng chẳng giấu
xong được nào.
Thúy Kiều tiễn Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư là vào mùa thu:
1519. Người lên ngựa kẻ
chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu
quan san.
Thúc Sinh ở nhà được một năm mà không dám nói ra với Hoạn Thư việc
mình lấy vợ lẽ Thúy Kiều. Và lúc này trời đã lại sang thu:
1593. Thú quê thuần vược
bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài
lá ngô
Lá ngô đồng đã rụng một vài chiếc lá vàng xuống cái giếng nước quý
là trời đã sang thu. Hoạn Thư biết ý Thúc Sinh nhớ Thúy Kiều muốn trở về nên nhắn
tin qua là đã một năm rồi cũng phải về mà chăm sóc cha già:
1599. Cách năm mây bạc xa
xa,
Lâm Tri cũng phải tính mà
thần hôn
Về đến nhà ở Lâm Tri Thúc Sinh được tin Thúy Kiều đã chết. Buồn quá
chỉ biết lấy câu vận mệnh mà khuây dần nỗi nhớ thương. Các mùa nối tiếp nhau
trôi đi nhanh chóng:
1795. Sen tàn cúc lại nở
hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà
sang xuân
Một năm sau, nhớ quê hương chàng Thúc Sinh lại tìm đường thăm quê:
1799. Chạnh niềm nhớ cảnh
gia hương,
Nhớ quê chàng lại tìm đường
thăm quê
Lúc này là vào mùa thu, nên Hoạn Thư nói câu:
1833. Khen rằng: “Hiếu tử
đã nên,
Tẩy trần mượn chén giải phiền
đêm thu”.
Như vậy tổng số thời gian từ khi Thúc Sinh gặp Thúy Kiều cho đến
khi gặp lại Thúy Kiều ở nhà Hoạn Thư là 3 năm 6 tháng.
7. Thúy Kiều bị bắt khi nào và ở nhà Hoạn
Thư bao lâu?
Ngay khi Thúc Sinh từ Vô Tích trở về Lâm Tri vào đầu thu, thì Hoạn
Thư cũng về bên mẹ là Hoạn Bà trình bày kế hoạch đi bắt Thúy Kiều bằng đường Thủy:
1613. Lâm Tri đường bộ
tháng chày
Mà đường hải đạo sang ngay
thì gần.
Từ Vô Tích về Lâm Tri thúc Sinh đi bằng đường bộ phải mất cả tháng,
đi bằng đường biển thì gần hơn, mất ít thời gian hơn. Hoạn Thư sửa sang thuyền
buồm cử Khuyển Ưng đi bắt Thúy Kiều về:
1707. Khuyển Ưng đã đắt mưu
gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới
thuyền.
Như vậy Thúy Kiều bị bắt về nhà Hoạn Bà là vào đầu thu, làm con hầu,
đổi tên thành Hoa nô. Sau đó Kiều được đưa sang nhà Hoạn Thư làm con hầu.
Bốn mùa cứ nối tiếp qua đi, thời gian trôi đi nhanh chóng:
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà
sang xuân
Thúc Sinh:
1799. Chạnh niềm nhớ cảnh
gia hương
Nhớ quê chàng lại tìm đường
thăm quê
Thúc Sinh gặp Thúy Kiều ở nhà Hoạn Thư và màn “ghen Hoạn Thư” nổi
tiếng xẩy ra ở đây, đó là vào mùa thu nên có câu:
1834. Tẩy trần mượn chén giải
phiên đêm thu
Đến lúc này Thúy Kiều đã ở nhà Hoạn Thư được một năm.
Và ngay sau đó Thúy Kiều xin được xuất gia và Hoạn Thư cho ở Quan
Âm Các “giữ chùa tụng kinh”. Thúy Kiều
đã ở đây được vài tháng:
1933. Sồng nâu từ trở màu
thiền,
Sân thu trăng đã vài phen đứng
đầu.
Nhân lúc Hoạn Thư về nhà mẹ đẻ, Thúc Sinh lẻn đến Quan Âm Các gặp
Thúy Kiều, Hoạn Thư bắt được quả tang và khi Thúy Kiều biết Hoạn Thư đã nghe hết
mọi chuyện hai người nói với nhau thì kinh sợ và quyết định bỏ trốn.
Thúy Kiều trốn đến ở Chiêu Ẩn Am được khoảng ba tháng từ cuối thu
cho đến đầu xuân:
2061. Cửa thiền vừa tiết cuối
xuân,
Bóng hoa đầy đất vẻ ngân
ngang trời
Thì bị lộ tung tích phải thú thật với sư Giác Duyên mọi chuyện.
Giác Duyên sợ bị nhà Hoạn Thư biết thì nguy hiểm, nên thương hại gửi Thúy Kiều
sang trốn ở nhà Bạc Bà. Như vậy Thúy Kiều ở Chiêu Ẩn Am từ cuối thu đến đầu
xuân được trên ba tháng.
Bạc Bà dọa và lừa buộc Thúy Kiều lấy Bạc sinh, rồi lừa đưa đến Châu
Thai bán cho nhà hàng viện, Thúy Kiều lại rơi vào lầu xanh lần thứ hai.
Ở Châu Thai Thúy Kiều gặp Từ Hải.
Như vậy thời gian Thúy Kiều ở lầu xanh của Tú Bà và ở kĩ viện Châu
Thai bao lâu thì cả Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân đều không nói.
Từ khi Thúy Kiều bán mình theo Mã Giám Sinh cho đến khi gieo mình
xuống sông Tiền Đường là 15 năm:
2643. Mười lăm năm bấy
nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần
thử soi!
Thúy Kiều than trong mười lăm năm đã có không biết bao nhiêu lần bị
oan khổ lưu ly
Tóm tắt lại thời gian Thúy Kiều lưu lạc
trong 15 năm ấy ta biết được:
1. Thời gian từ khi bán mình lấy Mã Giám Sinh đến khi về đến lầu xanh
của Tứ Bà và bị Sở Khanh lừa là khoảng 6 tháng.
2. Thời gian ở lầu xanh của Tú Bà: Không biết bao lâu.
3. Thời gian Thúc Sinh chuộc Kiều ra rồi cưới Kiều, hai người sống
với nhau được 1 năm
6 tháng.
4. Thời gian Kiều sống một mình ở Lâm Tri chờ Thúc Sinh về quê là 1
năm.
5. Thời gian Kiều ở nhà Hoạn Bà và Hoạn Thư là 1 năm.
6. Thời gian Kiều tu ở Quan Âm Các là vài tháng (vẫn trong mùa
thu).
7. Thời gian Thúy Kiều ở Chiêu Ẩn Am là trên 3 tháng.
8. Thời gian Thúy Kiều ở kĩ viện Châu Thai: Không biết bao lâu.
9. Thời gian Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi kĩ viện Châu Thai và sống với
nhau là 6 tháng.
10. Thời gian Kiều chờ Từ Hải đi tìm sự nghiệp:
Trong Truyện Kiều Từ Hải
nói là 1 năm.
Trong
Kim Vân Kiều truyện là 3 năm.
11. Tổng số thời gian Kiều chờ Từ Hải và sống với Từ Hải là 5 năm 6
tháng.
Tổng số thời gian Kiều lưu lạc ta biết được như đã liệt kê ra ở
trên là 10 năm.
Còn trống hai khoảng thời gian Kiều ở lầu xanh của Tú Bà và ở kĩ viện
Châu Thai. Thời gian lưu lạc của Thúy Kiều là 15 năm, vậy suy ra thời gian Kiều
2 lần ở lầu xanh là 5 năm.
Qua đây ta thấy Nguyễn Du dùng hình ảnh cây cỏ, hoa lá, chim muông,
khí hậu… các mùa để chỉ thời gian và khoảng thời gian xẩy ra các sự kiện, chúng
gắn liền với tâm tư tình cảm của Thúy Kiều và các nhân vật. Nguyễn Du có chủ ý
mô tả rất chính xác các mùa và các mốc thời gian. Cách mô tả thời gian bằng
hình ảnh các mùa làm cho người đọc hứng thú và không bị nhàm chán khi chỉ nói về
thời gian một cách đơn thuần. Lấy cảnh bốn mùa để mô tả thời gian sự việc là đặc
trưng riêng của thơ Kiều Nguyễn Du.
Hà Nội ngày 2.12.2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét